Thursday, November 12, 2015

Akbar Đại Đế - Ông hoàng minh triết Châu Á


                         
Trong thời gian phiêu bạt của vua Humayun - Vị vua thứ 2 của Đế chế Mulghal, cực khổ, thiếu thốn, nhưng vợ ông sinh được một người con trai, mà ông thành kính lựa tên Muhammad để đặt cho, nhưng sau này sử Ấn Độ chỉ gọi là Akbar, nghĩa là “Đấng chí tôn”.

Tên đầy đủ của hoàng tử là Jalaluddin Muhammad. Trời cho chàng đủ những tài đức để thành một vĩ nhân, và cơ hồ như tổ tiên chàng cũng đồng tình hợp lực để chàng được hưởng mọi di truyền tốt vì chàng là hậu duệ của Babur, Timur và Gengis Khan. Chàng lên ngôi năm 13 tuổi sau khi vua cha té ngã từ ban công cung điện xuống mà chết.

Chàng có vô số sư phó nhưng không chịu học ai cả, ngay đến tập đọc cũng không chịu. Chỉ thích những môn thể thao nguy hiểm, tập sự nghề làm vua bằng cách phi ngựa, chơi polo (mã cầu: cưỡi ngựa mà đánh cầu), trị những con voi dữ nhất, lúc nào cũng sẵn sàng đi săn sư tử, cọp, không ngại một sự khó nhọc, một nỗi nguy hiểm nào. Cũng như mọi “hảo hán” Thổ, chàng giết người mà không tởm. Hồi mười bốn tuổi, để được xứng với cái tôn hiệu Ghazi – “Sát tà đạo” – chàng huơ gươm chém một nhát rụng đầu một tù nhân Ấn. Con người sau này thành một ông vua hiền minh nhất, có học thức nhất trong lịch sử nhân loại, hồi trẻ dã man như vậy.

Mười tám tuổi, chàng không cần viên phụ chánh nữa, đích thân nắm hết mọi quyền hành, cai trị lấy thần dân. Lúc đó giang sơn của chàng gồm khoảng một phần tám Ấn Độ: một dải đất rộng trung bình khoảng năm trăm cây số, từ Multan tới biên giới Tây Bắc và tới Bénarès. Chàng tham lam vô cùng như ông nội, tận lực mở rộng đất đai, và sau nhiều chiến dịch tàn khốc, chiếm được toàn cõi Ấn Độ, trừ tiểu quốc Rajpute ở Mewar. Trở về Delhi, cởi xong binh giáp, chàng bắt tay liền vào việc tổ chức lại đế quốc. Chàng dùng chính sách chuyên chế, đích thân bổ nhiệm mọi quan lại lớn nhỏ, cả tại những tỉnh hẻo lánh nhất. Chàng có bốn quan cận thần: một vị tể tướng gọi là Vakir, một bộ trưởng tài chính , đôi khi gọi là Vazir (Vizier), có khi gọi là Diwan, một Triều trưởng gọi là Bakhshi, và một Giáo trưởng, gọi là Sadr, làm chủ Hồi giáo ở Ấn Độ.

                                          
                                     Muhammad Akbar (1542-1605)

Qua thời gian, khi trưởng thành, uy tín ông càng tăng, càng vững nhờ truyền thống, ông càng rút bớt quân đội đi, sau chỉ còn giữ một đạo quân thường bị là hai mươi lăm ngàn người thôi. Khi hữu sự, các võ quan tỉnh trưởng mộ thêm quân để tăng cường quân số nhỏ nhoi đó, nhưng phương tiện đó bấp bênh và chính sách đó làm cho Đế quốc Mông Cổ dưới thời Aureng-Zeb dễ sụp đổ. Các viên tỉnh trưởng và thuộc hạ ăn cắp, ăn hối lộ tới nỗi ông phải bỏ già nửa thì giờ vào việc trị tham nhũng. Ông hết sức tiết kiệm trong mọi chi tiêu của triều đình và cung điện tới nỗi định giá lấy thực phẩm, vật liệu và nhân công cung cấp cho quốc gia. Khi ông băng, trong quốc khố còn dư một số bằng khoảng một tỉ Mĩ kim ngày nay và đế quốc ông mạnh nhất thế giới.

Luật pháp rất nghiêm, thuế tuy nặng nhưng không bằng trước. Thuế điền thổ bằng từ một phần sáu tới một phần ba số thu gặt được, mỗi năm được khoảng hai tỉ quan. Nhà vua nắm trong tay cả ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, là tối cao thẩm phán, ông phải bỏ ra nhiều thì giờ xử những vụ quan trọng nhất. Ông ban các đạo luật cấm tảo hôn, cấm bắt quả phụ phải hoả thiêu theo chồng, cho quả phụ được tái giá, bỏ chế độ nô lệ, cấm giết sinh vật để tế thần, tôn giáo nào cũng được tự do, có tài thì làm nghề nào cũng được, không phân biệt nòi giống và tôn giáo, bãi bỏ thuế thân mà các vua Hồi thời trước đánh vào những người Ấn không theo Hồi giáo. Khi ông mới lên ngôi, còn dùng hình phạt chặt tay chặt chân, nhưng về cuối đời ông, hình luật Ấn có lẽ nhẹ hơn hết ở thế kỉ XVI. Các quốc gia mới thành lập, bắt đầu phải dùng chính sách cường bạo, rồi nếu được an ổn thì lần lần chính sách hoá ôn hoà hơn, tự do hơn.

Nhưng tư cách, cá tính cương cường của một quốc trưởng thường là nguyên nhân suy nhược của chính quyền. Chế độ tôi vừa mới miêu tả chỉ dựa trên những tài đức siêu phàm của Akbar, cho nên khi ông băng rồi, chế độ tự nhiên lung lay. Ông nuôi nhiều sử quan quá và tự nhiên, bọn này hết sức ca tụng ông, khen ông có đủ mọi đức: võ sĩ bậc nhất, kị sĩ bậc nhất, rồi về kiếm thuật, kiến trúc, môn nào cũng vào hạng nhất, dung mạo thì đường bệ, oai phong không ai bằng. Sự thật, ông là con lai hai dòng máu giữa người Thổ và người Mông Cổ, mắt nhỏ, chân tay dài. Nhưng bề ngoài vẫn đẹp, nhờ sạch sẽ, nghiêm trang, bình tĩnh, cặp mắt sáng ngời “như mặt biển dưới ánh nắng” (lời một người đồng thời), tia mắt rọi vào ai thì có thể làm cho người đó sợ run lên, như Vandamme run trước Napoléon. Y phục giản dị: một cái mũ chụp, một chiếc áo ngắn, một chiếc quần bằng gấm thêu, vài món châu báu, đi chân không. Không thích ăn thịt, về già thường bảo: “Không nên dùng bao tử của mình làm cái mồ chôn sinh vật”. Nhưng lực lưỡng, ý chí mạnh, giỏi về các môn thể thao kịch liệt, một ngày đi bộ được sáu chục cây số như chơi. Ông ta mê chơi “polo”, chế tạo một trái cầu chiếu sáng để chơi ban đêm. Ông được di truyền những bản năng tàn bạo của tổ tiên, và hồi trẻ, ông rất có thể giải quyết một chuyện khó xử bằng thủ đoạn ám sát, cũng như các vua theo Ki Tô giáo thời đó. Nhưng lần lần nhờ tinh thần công bằng, rất hiếm thấy trong hạng vua chúa phương Đông, ông vượt hẳn lên trên các nhà cầm quyền đương thời. 

Firishta bảo: “Đức khoan hồng của ông vô biên, tới nỗi có thể nói là khinh suất nữa”. Ông nhân từ, bố thí rất nhiều, hoà nhã với mọi người, nhất là với người nghèo. Một nhà truyền giáo Dòng Tên bảo: “Ông hoan hỉ nhận những tặng vật nhỏ mọn của người nghèo, đưa tay đỡ lấy, đặt vào lòng, còn những bảo vật các nhà quí phái dâng ông thì ông không tỏ vẻ trịnh trọng như vậy”. Một người đương thời bảo ông hơi điên khùng, có người lại bảo ông u uất tới cái mức thành bệnh. Có thể ông uống rượu một cách điều độ, và hút thuốc phiện; thân phụ ông và các con ông cũng có những tật đó nhưng phóng túng hơn ông. Hậu cung của ông cũng lớn, xứng với đế quốc ông, người ta kể lại rằng “ở Agra và Fathpur-Sikri, hoàng thượng có ngàn thớt voi, ba mươi ngàn con ngựa, một ngàn bốn trăm con hoẵng nuôi đã thuần và tám trăm cung nữ”. Nhưng hình như ông không đam mê nhục dục. Ông có nhiều vợ, nhưng đó chỉ là vấn đề chính trị, các vua Rajpute tặng công chúa cho ông thì ông nhận để làm vui lòng họ, mà họ chống đỡ ngai vàng cho ông; từ hồi đó, các vua Mông Cổ đều lai Ấn hết. Một người Rajpute thành nguyên soái của ông và một rajah làm tể tướng cho ông. Mộng của ông là đoàn kết Ấn Độ.

Ông không có óc thực tế và tinh mật một cách thản nhiên như César hay Napoléon; mê siêu hình học, và nếu ông bị cướp ngôi thì rất có thể sống một đời ẩn sĩ theo thần bí giáo. Óc ông lúc nào cũng hoạt động, lúc rảnh thì sáng chế cái này, cải thiện cái kia. Như Harounal-Rashid, có lần ông cải trang, vi hành ban đêm và trở về cung, trong đầu đầy những ý nghĩ cải cách. Bận rộn vì bao công việc rắc rối, mà ông vẫn có thì giờ thu thập được một thư viện quan trọng gồm toàn những bản viết tay rất đẹp, khắc tỉ mỉ, công trình của những thư sĩ (người viết chữ tốt) mà ông coi là những nghệ sĩ ngang hàng với các hoạ sĩ, kiến trúc sư làm vẻ vang cho triều đại ông. Ông khinh thuật in, cho là máy móc, không phát hiện được tài hoa của mỗi người, và ông liệng bỏ những mẫu ấn loát của phương Tây mà các tu sĩ Dòng Tên đã lựa chọn để tặng ông. Thư viện của ông chỉ có hai mươi bốn ngàn cuốn, nhưng những người cố đánh giá những vật vô giá, sản phẩm của tinh thần đó, phỏng định giá trị là non chín chục triệu quan tiền Pháp. Ông rộng rãi tưởng lệ các thi sĩ, rất quí mến thi sĩ Ấn Birbal, vời về triều, phong làm tướng quân, nhưng ra trận, tướng quân ta đại bại, chạy dài, chẳng nên thơ chút nào cả và bị địch giết, tội nghiệp. Akbar bảo các văn sĩ ở triều dịch các danh tác về văn học, lịch sử và khoa học Ấn Độ ra tiếng Ba Tư, ngôn ngữ chính thức hồi đó, ông đích thân coi sóc công việc dịch anh hùng ca dài vô tận Mahabharata. Nhờ sự bảo trợ và khuyến khích của ông mà mọi nghệ thuật đều toàn thịnh.

Thời đó là một trong những thời rực rỡ của nhạc, thơ; và hoạ (cả hoạ Ấn lẫn hoạ Ba Tư), một lần nữa, lên tới tuyệt đỉnh. Ở Agra ông sai dựng một thành luỹ danh tiếng, trong thành có năm trăm toà nhà, lâu đài mà người đương thời cho là đẹp nhất thế giới. Nhưng vua Ba Tư Jehan hung hăng sai đập phá hết và bây giờ các công trình kiến trúc thời Akbar chỉ lưu lại ít tàn phế, như mộ Humayun ở Delhi và vài di tích ở Fathpur-Sikri, nơi có phần mộ của nhà tu hành khổ hạnh Shaik Salim Chisti – bạn thân của Akbar, phần mộ đó là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất của Ấn Độ.

Đáng quí hơn nữa, Akbar còn thích suy cứu về triết lí. Vị đế vương quyền uy cơ hồ trùm thiên hạ đó trong thâm tâm muốn thành một triết gia, cũng gần như các triết gia ước ao được thành đế vương và trách Thiên ý thật kì cục, chính mình đáng được thống trị thiên hạ thì lại không cho mình lên ngai vàng. Sau khi chinh phục thế giới rồi, Akbar đau khổ thấy mình không sao hiểu nổi nó. Ông bảo: “Mặc dầu tôi làm chủ tể một đế quốc mênh mông, có đủ quyền uy, nhưng cái chí cao chí đại chính là thuận ý Thượng Đế, mà óc tôi lại thấy ngượng nghịu khi tiếp xúc với tất cả các giáo phái, các tín ngưỡng đó, thì làm sao tôi có thể thích việc cai trị thần dân được? Tôi mong có ai tới giúp tôi cởi những thắc mắc của lương tâm tôi… Tôi thích những cuộc đàm đạo về triết lí tới nỗi quên cả những công việc khác và tôi phải gắng sức tự kiềm chế mình, đừng mãi miết với triết lí để khỏi sao nhãng bổn phận trị dân”. 

Badaoni bảo: “Từng đoàn các nhà bác học khắp các nước, từng đoàn các nhà hiền triết trong mọi tôn giáo, mọi giáo phái lại triều đình và được nhà vua tiếp riêng. Sau khi điều tra, tìm tòi suốt ngày thâu đêm, các nhà đó họp nhau đàm luận về các vấn đề khoa học rất khó hiểu, về các tế nhị của sự mặc thị, về các điều kì dị trong lịch sử, trong thiên nhiên”. Akbar bảo: “Phần cao cả của con người ở trong cái bảo vật là lí trí”.

Các triết gia thường rất chú ý tới tôn giáo, ông cũng vậy. Vì chăm chú đọc anh hùng ca Mahabharata và thân mật đàm đạo với các hiền triết, thi sĩ Ấn Độ, riết rồi ông thích nghiên cứu các tôn giáo Ấn. Ít nhất là trong một thời gian ông tin thuyết luân hồi, có lần ông ra trước công chúng mà trên trán mang dấu hiệu của Ấn giáo, làm cho các cận thần Hồi của ông khó chịu, ngạc nhiên. Ông biết tỏ ra ân cần, hoà nhã với mọi tín ngưỡng: ông bận một chiếc áo lót và đeo chiếc dây lưng thiêng liêng của đạo Zoroastre (ở Ba Tư) nên các tín đồ Zoroastre thích ông; ông theo lời yêu cầu của tín đồ đạo Jaïn, không đi săn nữa và mỗi tháng cấm sát sinh vài ngày. Khi ông mới nghe thấy nói về một tôn giáo gọi là Ki Tô giáo mà người Bồ Đào Nha tới buôn bán ở Goa truyền bá vô Ấn Độ, ông sai một sứ giả tới yêu cầu các nhà truyền giáo phái Pauliste [một giáo phái Ki Tô giáo, theo giáo lí của Thánh Paul] ở Goa, phái tới ông hai tu sĩ uyên bác nhất. Sau có vài tu sĩ Dòng Tên tới Delhi thuyết giáo làm cho ông thích chúa Ki Tô và ông bảo các thư kí của ông dịch Tân Ước cho ông. Ông cho phép các tu sĩ Dòng Tên tự do truyền đạo và nhờ họ dạy hoàng tử nữa. Vào cái thời mà ở Pháp, các tín đồ Công giáo tàn sát tín đồ Tin Lành, thời mà ở Anh [dưới triều nữ hoàng Elizaberh] tín đồ Tin Lành tàn sát tín đồ Công giáo, cái thời mà Pháp đình tôn giáo xử tử Do Thái ở Y Pha Nho, mà Giordano Burno bị thiêu ở Ý, thì Akbar mời đại biểu tất cả các tôn giáo ở Ấn Độ dự một hội nghị, cho họ được an ổn hành đạo, ban hành những sắc lệnh về tự do tín ngưỡng, tự do thờ phụng, và để tỏ mình trung lập trong vấn đề đó, cưới những bà vợ theo các đạo Bà La Môn, Phật và Hồi.

Khi lửa lòng tuổi trẻ đã dịu rồi, nỗi vui nhất của ông là được đàm luận ung dung về các vấn đề tôn giáo. Ông bỏ hết các tín điều của đạo Hồi, làm cho các thần dân Hồi của ông bất bình mà không dám nói ra, trách ông là thiên vị. Thánh François Xavier có lẽ nói hơi quá rằng: “Ông vua đó từ bỏ hẳn, đã diệt nguỵ đạo của Mahomet. Trong đô thị đó không còn lấy một giáo đường Hồi, một bản kinh Coran – kinh của đạo Hồi – và những giáo đường Hồi trước kia nay dùng làm chuồng ngựa, làm kho chứa đồ”. Akbar không tin Mặc khải, chỉ chấp nhận những tín ngưỡng dựa vào triết lí và khoa học. Ông thường họp các bạn bè và các đầu mục của mọi giáo phái để đàm đạo không ngớt với họ về tôn giáo, từ chiều thứ năm đến trưa thứ sáu mỗi tuần. Khi các mullah Hồi giáo và các mục sư Công giáo cãi nhau, thì ông trách cả hai bên, bảo rằng phải thờ Thượng Đế một cách sáng suốt, thông minh chứ không nên nhắm mắt theo một lối mặc khải tưởng tượng nào đó. Ông bảo: “Mỗi người tuỳ theo tôn giáo, xứ sở của mình mà gọi Đấng Tối Cao bằng một tên nào đó, nhưng sự thực, làm sao có thể đặt tên cho Đấng Bất Khả Tri được”. Như vậy là có lẽ ông chịu ảnh hưởng của các Upanishad. Một hôm, một số người Hồi đề nghị với ông dùng phép thử lửa để xem Ki Tô giáo và Hồi giáo bên nào phải bên nào trái: một mullah cầm kinh Coran và một mục sư Công giáo cầm một sách Phúc âm cùng nhảy vô lửa một lúc; ai ra khỏi lửa mà không tổn thương một chút gì thì là người đó nắm được chân lí. Akbar không ưa vị mullah mà phe Hồi giáo đề cử thí nghiệm, nên hăng hái chấp nhận đề nghị, nhưng các tu sĩ Dòng Tên gạt bỏ đề nghị, cho là bất kính, nghịch đạo, nếu không phải là nguy hiểm. Lần lần các nhà thần học không tới dự các hội nghị đó nữa mà xa lần Akbar và các cận thần, bạn bè theo chủ nghĩa duy lí của ông.

Chán ngán về tình trạng chia rẽ trong các tôn giáo và lo ngại rằng mình chết rồi, tình trạng đó sẽ làm cho đế quốc tan rã. Akbar quyết định ban bố một tôn giáo mới mà giáo lí thực giản dị và chứa tất cả những điều cốt yếu của các tín ngưỡng đối nghịch nhau. Nhà truyền giáo Dòng Tên Bartoti kể lại việc đó như sau:
Ông tổ chức một đại hội nghị tôn giáo, với các nhà bác học nổi danh nhất và các viên tư lệnh các tỉnh thành chung quanh, trừ cha Ridolfo vì ông biết rằng cha sẽ phản đối đề nghị bất kính của ông. Khi họ đã họp đủ mặt rồi, ông mánh khoé, gian xảo nói với họ như sau:
“Trong một đế quốc chỉ do một người cầm đầu thì không nên để cho thần dân chia rẽ, làm cho ý kiến kẻ này bất đồng với kẻ khác… như thế thì có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu loạn đảng. Vì vậy chúng ta nên họp các tôn giáo làm một, cho các tôn giáo tuy “nhiều” mà vẫn là “một”; cái lợi lớn nhất là vẫn giữ được phần tốt trong mỗi tôn giáo mà lại được hưởng tất cả những cái hay nhất trong các tôn giáo khác. Như vậy là tỏ lòng sùng ngưỡng Thượng Đế, dân chúng được an ổn mà đế quốc được an ninh.

Dĩ nhiên hội nghị phải tán thành đề nghị đó. Akbar mới đầu tự phong cho cái chức giáo chủ tối cao, không khi nào lầm lẫn; đó là ý quan trọng nhất ông mượn của Ki Tô giáo. Còn chính tôn giáo đó thì là một thứ nhất thần giáo có tính cách phiếm thần, hoàn toàn theo truyền thống Ấn Độ, pha thêm chút thờ lửa, thờ mặt trời để mua chuộc các tín đồ Zoroastre, một lời khuyên cữ ăn thịt để lấy lòng các tín đồ Jaïn. Giết bò cái thành một tội nặng: điểm này người Ấn rất hoan nghênh, nhưng người Hồi lại rất bất bình. Một sắc lệnh nữa buộc toàn dân phải ăn chay ít nhất là một trăm ngày mỗi năm; ông cũng cấm ăn hành tỏi để tôn trọng thành kiến trong dân chúng. Đồng thời lại cấm xây cất các thánh đường Hồi giáo, cấm làm lễ Ramadam, cấm hành hương ở La Mecque, và đa số các tục Hồi khác. Một số lớn người Hồi phản kháng và bị tội đày. Ở giữa sân Hoà Bình tại Fathpur-Sikri, người ta cất một đền Tôn giáo – hợp nhất, (đền nay vẫn còn), biểu hiện hi vọng của ông muốn được thấy toàn dân Ấn cùng thờ một Thượng Đế, cùng coi nhau như anh em.

Về phương diện tôn giáo, Akbar không thành công chút nào cả vì đụng nhằm nhiều truyền thống mạnh quá. Vài ngàn người theo tôn giáo mới, đa số là vì lợi, muốn lấy lòng ông, còn dân chúng vẫn theo tín ngưỡng cũ của họ. Về phương diện chính trị, có được vài kết quả tốt. Sự bãi bỏ thuế thân và thuế hành hương hồi trước đánh vào người Ấn, sự tự do ban hành cho các tôn giáo[45], sự cuồng tín về nòi giống, tôn giáo giảm đi, do đó dân chúng bớt hăng say chống nhau về giáo lí, tất cả những cái lợi đó dư để bù những bất lợi khác của chính sách Akbar. Sau cùng dân Ấn, ngay cả những người không chịu theo tôn giáo mới cũng trung thành với ông hơn, và ta có thể nói rằng ông đã đạt được mục đích: thống nhất về chính trị.

Trái lại, đối với những người Hồi, thì chính sách của ông gây nhiều nỗi khó khăn quan trọng, có nhiều cuộc phản loạn xảy ra và ngay hoàng tử Jehangir cũng âm mưu chống lại cha. Jehangir phàn nàn rằng cha đã trị vì bốn chục năm mà thể chất vẫn mạnh mẽ quá, không có hi vọng gì ông chết sớm. Chàng tập hợp được một đạo quân gồm ba vạn kị binh, giết Abu-l-Fazl, sử quan và là bạn rất thân của nhà vua, rồi tự xưng đế. Akbar bảo con có muốn sống thì qui phục đi, Jehangir biết không chống lại nổi, đành qui phục và hai mươi bốn giờ sau được ông tha; nhưng ông đau lòng về sự phản bội của con, về cái chết của mẹ ông và người bạn thân nhất của ông, nên cũng không sống thêm được bao lâu nữa. Mấy năm cuối cùng trong đời ông, các con bỏ bê ông mà chỉ lo tranh giành ngôi báu. Khi ông tắt nghỉ – có lẽ vì bệnh lị, hoặc bị Jehangir đầu độc – chung quanh chỉ có vài người thân; các tu sĩ Hồi giáo thuyết ông trở lại đạo Hồi nhưng không được. “Nhà vua băng mà không được một Giáo hội, giáo phái nào tụng cho câu kinh, câu kệ”. Đám tang rất sơ sài, chẳng có một đám đông nào theo quan tài, trừ mấy người con, mấy cận thần, nhưng vừa chôn xong, ngay tối hôm đó, họ đã cởi bỏ ngay áo tang, hoan hỉ được kế thừa ngôi báu và đế quốc mênh mông của ông.

No comments:

Post a Comment